Mỗi dịp Tháng Năm, nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa lớn được UNESCO vinh danh, mỗi người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế lại nhớ về những cống hiến vĩ đại, tấm gương đạo đức mẫu mực của Người. Đó là tấm gương sáng chói những phẩm chất cách mạng cao cả nhất của một người cộng sản “đặc biệt mà cái chết là mầm mống của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt” luôn khắc sâu trong lòng nhân dân Việt Nam, nhân dân các dân tộc yêu độc lập, tự do, hoà bình, công lý; luôn đồng hành cùng dân tộc kiên định trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Theo tiểu sử chính thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890 tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (Trùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, cha là Nguyễn Sinh Sắc và mẹ là Hoàng Thị Loan, được đặt tên là Nguyễn Sinh Cung, là thứ ba trong gia đình có bốn con. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa, đấu tranh anh dũng, bất khuất giành độc lập dân tộc đều lần lượt thất bại, phong trào cứu nước của nhân dân ta đứng trước khủng khoảng sâu sắc về đường lối. Chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho dân, cho nước.
Ngày 05/6/1911 với tên gọi Văn Ba, Người đã lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước, suốt 30 năm hoạt động, Người đã đi đến nước Pháp và nhiều nước Châu Âu, Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ. Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân lao động các nước thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917 thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác -Lênin. Từ đây Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc gắn liền giải phóng giai cấp, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đặt chân lên con tàu Amiral Latouche Treville tại bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước (Ảnh: Tư liệu)
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do người sáng lập vào năm 1930, cùng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản được xác định. Điều này không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân tộc, mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đoàn nghệ thuật thiếu nhi Liên khu X và đội thiếu sinh quân đến chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Người tại chiến khu Việt Bắc (19-5-1950). Ảnh: TTXVN
Ngay khi giành được độc lập, chính quyền non trẻ của ta đứng trước tình thế vô cùng khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng đã sáng suốt đề ra đường lối đúng đắn, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh, giữ vững chính quyền cách mạng. Trên cơ sở đường lối kháng chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường kỳ”, “dựa vào sức mình là chính” phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân ta lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, quân và dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngày 30/4/1975, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại biểu học sinh Trường Trung Vương, Hà Nội chúc mừng sinh nhật Người (19-5-1956). Ảnh: TTXVN
Cuộc đời của Người là biểu tượng cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa yêu thương, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về cách sống, cách nghĩ, cách viết, cách nói, cách làm việc.
Bác là biểu trưng sinh động cho phong cách sống của một con người vĩ đại: Thanh tao, khiêm tốn, không ham danh lợi đạt đến độ mẫu mực, cảm hoá được tình cảm của con người. Với tinh thần của người cộng sản, Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, dành trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”.
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước độc lập, nhân dân thoát khỏi ách nô lệ, được sống cuộc sống tự do, bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng cuộc sống thanh bạch của vị Chủ tịch nước vẫn không có gì thay đổi. Người không đòi hỏi bất kỳ những gì riêng tư cho mình, kể cả trong những dịp kỷ niệm Ngày sinh của Người.
Khi giữ trọng trách Chủ tịch nước, Bác tâm sự: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui…”
Bác dành trọn cuộc đời để cống hiến cho tổ quốc Việt Nam (Ảnh: Tư liệu)
Tuy Bác đã đi xa, song những lời căn dặn, những chỉ dẫn thiêng liêng và tình cảm thiết tha của Người đã trở thành “mệnh lệnh trái tim” đối với mỗi người dân Việt Nam. Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao, biển rộng. Người đã gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân cho đến hơi thở cuối cùng. Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi trường tồn với non sông đất nước, với dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vĩ nhân đã in đậm dấu ấn vào lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại. Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng nhận rõ tính nhân văn và sự vĩ đại của Người. Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh luôn sống mãi trong tâm khảm của chúng ta, là ngọn đuốc tỏa sáng, soi đường dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Bài và ảnh: Trung tâm Truyền thông và Tuyển sinh (tổng hợp)
Nguồn: https://hou.edu.vn/tin-tuc/1294/chao-mung-ky-niem-134-nam-ngay-sinh-chu-tich-ho-chi-minh.html